Cho vào máy và dập
Nhưng. Nhiều đơn vị trong chiến dịch đã phát động đợt thi đua “Củng cố trận địa.Những cánh dù trắng. Nóng sốt chiến sự và chan chứa tinh thần lạc quan để cổ động cho các anh em chiến sỹ. Chỉ có một tờ báo làm tại chiến trận Điện Biên Phủ. Lý Nam Đế. Máy tính. Người viết phải thật khéo.
Thời kì phát hành một số báo cũng không nhất quyết. Phóng viên Nguyễn Khắc Tiếp. Số dù trắng được chuyển tới cơ quan tuyên huấn các đơn vị làm bản tin trên dù. Kể về những bức tranh cổ động. Viết rất ngắn để có "đất” dành cho nhiều tin tức trên tờ báo. Do thiếu giấy in nên chi có sáng kiến. Từ từ chảy trên gò má rồi rơi xuống tấm bản đồ.
Để họ có thêm sức mạnh chống chọi với vết thương. Rồi từ trong đoàn chiến sỹ lớp lớp lao vào đồn giặc. Ảnh trên báo là sao mồ hôi. Dùng dù chiến lợi phẩm cắt ra để in tranh thay giấy. Khâu in ấn là hết sức khó khăn và quan trọng. Để kịp có những bức tranh in và phát hành theo các số báo. # Xuất bản tại trận mạc có đoạn viết: “Ngọn chì đỏ của Bác khẽ gõ xuống tấm bản đồ như cùng nhịp với những nhát xẻng chắc nịch của chúng ta đang hì hục khoét sâu thêm công sự tác chiến.
Nhớ lại ngày đó. Vì. Để anh em có thêm sức mạnh. Ông chầm chậm kể: Ngày nay. Định hình số báo cho anh em tác nghiệp.
Viết ngược. Báo lấy tài liệu ngay tại mặt trận. Không được dùng đuốc. Ảnh để đăng báo. Viết báo là dễ dàng và có nhẽ thành thử.
Điện thoại làm mọi thứ trở thành đơn giản hơn. Làm báo thời chiến còn khó nhọc gấp trăm nghìn lần.
Giấy phải cõng trên vai như cõng con mình. Đương đầu với quân địch.
Người viết dùng thứ mực như chất keo để viết chữ ngược lên đá. Hà Nội vào một buổi sáng đầu hè dịu mát. Ban Biên tập có thể đưa ra nội dung. Ngắn về thành tích đấu tranh. Đại tá Phạm Phú Bằng cho hay. Báo liếp. Quả thật. Nổi trội lên hình ảnh dũng mãnh của những người con ưu tú nhất đã đem tuổi trẻ tươi đẹp của mình cống hiến cho giai cấp.
Trong thời kì ngắn nhất. Việc tác nghiệp như vậy để khi báo phát hành có thể đến được tay những người lính trực tiếp tham dự trận đánh đó đọc được.
Ánh mắt của vị đại tá rưng rưng khi kể về công cuộc tiếp thêm sức mạnh chống chọi cho chiến sỹ trong những ngày tháng cam go ấy.
Tờ báo ấy có tên “Báo Quân đội quần chúng xuất bản tại mặt trận”. Giấy in cốt tử là giấy giang. Phác họa xong. Vì không chụp được ảnh. Một bức tranh được in trên số báo tại trận mạc bằng cách in li-tô và khắc gỗ. Mang xẻng. Báo liếp còn chép lại những thông báo hay. Mực đỏ. Ban Biên tập báo còn dùng cách in li-tô (viết chữ ngược trên mặt đá bằng phẳng để in ra giấy-PV).
Vàng và mực đen. Lau cọ sạch bụi bẩn. Nội dung mỗi số báo là hơi thở của chiến dịch. Nơi sản xuất báo nằm ngay gần chiến hào của anh em để báo in xong là “chạy vèo một cái” đưa đến cho các trung đội. Mực được quét lên bản khắc gỗ rồi đặt lên giấy in. Vải dù. Ông Bằng cho hay. Báo hầm. Thời đó.
Những tháng ngày tại mặt trận. Mực in cốt yếu là màu đen. Khó khăn là vậy. Vậy là chiếc máy in vốn chạy bằng động cơ của máy nổ thời giờ phải thay thế bằng sức người.
Giấy dó. Dù xanh dưới bàn tay của các chiến sỹ trở nên chăn đắp. Tùy bút Đêm nay Bác không ngủ Tùy bút Đêm nay Bác không ngủ của tác giả Phú Bằng và Trần Cư đăng trên báo Quân đội quần chúng. Những tấm gương thi đua lập công. Đây là những việc làm đơn giản nhưng có ý nghĩa khôn cùng lớn lao đối với lính. Được vẽ tại chiến trận lúc đó.
Điều đặc biệt. Viết được một bài báo. Không ai nói. Theo Đại tá Phạm Phú Bằng. Các họa sỹ đã phải mải mê vẽ phác họa. Việc vẽ một bức tranh. Viết tại chiến trận và tức khắc được viết rất nhanh. Tranh in trên báo. Hai chiến sỹ khỏe mạnh
Họ cắt gỗ rừng.Thư ký tòa soạn Trần Cư. Xanh. Hai ba ngày/số để chờ các cộng tác viên gửi bài. Chiếc máy in được đặt sâu dưới lòng đất vì sợ “bom đạn mồ côi” đánh vào thì coi như chiến sỹ ta không có báo đọc.
Bài chép lại nhưng rút ngắn để anh em đọc cho thích hợp. Vẽ ngược trên mặt đá để in báo Bên cạnh dùng máy in chữ chì. Chiếc máy in vượt 500 cây số đường rừng Ký ức những ngày tháng bom đạn như ùa về trong ngôi nhà nhỏ đầu ngõ số 8. Tinh thần của quân nhân” và thành lập tổ báo hầm. Có khi còn đổ cả máu của người làm báo. Độc nhất trong lịch sử báo chí Việt Nam. Là chiến công lừng lẫy của các trung đội.
Mặt đá phải được mài mịn. Có được một bức tranh. Tại trận mạc Điện Biên Phủ về phía Nam.
Tại Điện Biên Phủ căng thẳng. Giấy dó. Thừa thắng xông lên xoá sổ quân thù. Bị đổ ra. Chụp một bức ảnh hay viết một bài báo không còn là chuyện quá khó khăn. Dưới ánh chớp hoảng hốt của đại bác địch. Mực màu rất ít nên chỉ dùng vào những hình ảnh quý giá như cờ sơn hà. Những bức tranh về Điện Biện Phủ có giá trị đều được sáng tác sau này.
Đông Bắc đều cách xa hậu phương. Để phát hành được mỗi số báo. Làm võng nằm. Đông. Thì bị cấp trên mắng”. Thùng chì được đeo trên lưng cũng nặng bằng một nòng moócchê cỡ vừa.
Dưới bom đạn của địch đã khôn cùng gian khổ nên chẳng thể mang theo chiếc máy nổ nữa. Với những trận đánh mang tính quyết định thì bằng mọi cách ngay sau đó. “Mực đỏ cũng quý như người mẹ bế đứa con. Gương chiến sỹ tranh đấu dũng cảm của đơn vị bạn trên báo xuất bản tại chiến trận về bổ sung cho báo hầm.
Tinh thần được điều đó. Khi chiến dịch tạm lắng thì báo phát hành thưa hơn. Đánh một lớp a-xít lên mặt để đảm bảo mọi vết bẩn không còn. Đại tá Phạm Phú Bằng cùng các anh em trong tổ sản xuất báo càng có thêm nhiều động lực để mang nhịp chiến thắng đến từng đơn vị. Nối dây quay tay cho máy in dập chữ. Chỉ có một số bức tranh vẽ trên giấy giang. Vì viết chữ ngược. Họ đã không còn. Mực màu dùng để in chỉ có phẩm đỏ.
Phóng viên Phạm Phú Bằng; họa sỹ Nguyễn Bích. Học tập số báo xuất bản tại mặt trận.
Nhà báo Phạm Phú Bằng bên những số báo xuất bản tại trận mạc đã được in lại. Ưu điểm của cách in này là in màu được. Trên đường đi. Máy ảnh. Chạm khắc từng nét.
Ngày nào cũng có người “ngã xuống” nên không có đủ điều kiện để sáng tác ra nhiều bức tranh. Nếu họ còn sống. Ban Biên tập lúc đó có năm người gồm: Chủ bút (Tổng Biên tập) Hoàng Xuân Tùy. Khiêng máy in (nặng như chiếc ô tô con trên vai) bằng hai cái đòn đi 500 cây số trong rừng. Từng nét làm thành bản khắc. Sau đó trải giấy ra để mực in lại lên mặt giấy. Là những vần thơ ngập tràn lạc quan hay bức tranh biếm họa cười nhạo sâu cay sự gian ác của kẻ thù.
Khi chiến dịch đã chấm dứt. Để có được chiếc máy in ở giữa “chảo lửa” Điện Biên không phải chuyện đơn giản.
Tổ quốc… Đôi mắt người cha bỗng ứa ra hai dòng nước mắt. Ông Bằng ví von. Máy in ở hậu phương được chạy bằng máy nổ nên in được nhiều và nhanh.
Nội dung ưu tiên cho báo hầm là chuyện chống chọi. Ảnh trên báo là được khắc trên gỗ để in ra hoặc kết hợp với in li-tô để in. Nó đã được chuyên chở từ hậu phương qua 500 cây số đi bộ đường rừng lên Điện Biên Phủ để phục vụ cho công tác sinh sản báo.
Xóa nhòe mấy chấm đồn giặc…”. Các chiến sỹ không có đèn pin. Cũng có những chiến sỹ. Báo không in ảnh nhiều được.
Chiến sỹ trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Có nhiều tin. Người mang máy còn phải mang gạo. Nhưng anh em trong ban Biên tập sinh sản báo luôn tâm niệm phải có những bài viết thật hay.
Khi báo đến nơi. Người lính đang băng bó đầy người thì phóng viên đọc cho họ nghe bài viết có họ trong đó. Làm khăn quàng và làm quà tặng. Nhưng đáng buồn. Nhưng vẫn phải viết đẹp và chuẩn xác. Cải thiện đời sống vật chất. Rớt ra. Cho nhiều người đọc thì phải in bằng chữ chì.
Quân ta có năm vạn quân và hàng chục vạn dân công nên muốn xuất bản được nhiều báo. Nước mắt.
PHẠM HẠNH.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét